1. Khái niệm về bệnh da do đái tháo đường
Đái tháo đường là bệnh lý mạn tính với sự gia tăng nồng độ đường huyết trong máu và những rối loạn về insulin như thiếu hụt insulin và/ hoặc đề kháng insulin ở mô ngoại biên. Bệnh đái tháo đường dẫn tới những rối loạn về chuyển hóa, gây tổn thương nhiều cơ quan như tim, mạch máu, thần kinh, miễn dịch, mắt và da.
Bệnh da do đái tháo đường là một trong những biến chứng đái tháo đường thường gặp, gây ra các vấn đề về da phổ biến nhất ở người bệnh đái tháo đường. Bệnh da do đái tháo đường đặc trưng bởi các sang thương da tróc vảy, lõm nhẹ, thường có màu hơi đỏ hoặc nâu nhạt, hình tròn hoặc bầu dục và thường xuất hiện ở mặt trước cẳng chân (gặp ở 30% người bệnh đái tháo đường).
Có đến hơn 50% bệnh nhân đái tháo đường có các vấn đề về da. Mặc dù bệnh da do đái tháo đường phổ biến ở những người trên 60 tuổi nhưng thực tế bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, không phân biệt giới tính và chủng tộc. Người già, những người có đường huyết kiểm soát kém hoặc mắc bệnh từ 10 – 20 năm là đối tượng có nguy cơ cao bị bệnh da do đái tháo đường.
2. Biểu hiện của bệnh da do đái tháo đường
Biểu hiện của bệnh da do đái tháo đường thường gặp nhất là những mảng hoặc đốm tăng sắc tố da ở trước cẳng chân. Các biểu hiện của bệnh da do đái tháo đường bao gồm:
- Các mảng da ban đầu thường bị bong tróc vảy tróc nhưng sau đó phẳng rồi lõm nhẹ vào, được gọi là teo.
- Các mảng da nhiều màu từ màu hồng đến đỏ hoặc nâu nhạt đến nâu sẫm.
- Có hình tròn hoặc hình bầu dục.
- Có thể có nhiều nốt bao phủ một vùng lớn.
- Các mảng sang thương da hiếm khi châm chích, ngứa rát da, loét hở hoặc đau. Ở một số những mảng da này nhìn giống như đốm đồi mồi.
Bệnh da do đái tháo đường thường xuất hiện chủ yếu trên cẳng chân. Vị trí khác ít gặp hơn bao gồm da đầu, cẳng tay, mặt trước đùi, cạnh bên bàn chân và thân mình.
3. Nguyên nhân của bệnh da do đái tháo đường
Nguyên nhân chính xác gây ra bệnh da do đái tháo đường vẫn chưa được xác định nhưng có thể liên quan đến các biến chứng đái tháo đường về thần kinh và mạch máu. Một nguyên nhân là do có những thay đổi trong các mạch máu nhỏ dẫn đến sự rò rỉ các thành phần tế bào từ trong mạch máu vào da.
Bệnh da do đái tháo đường có xu hướng xảy ra ở những người lớn tuổi hoặc đã mắc bệnh đái tháo đường trên 10 năm. Ngoài ra bệnh da cũng liên quan đáng kể đến tình trạng tăng hemoglobin glycosyl hóa – dấu hiệu của việc kiểm soát đường huyết kém. Tổn thương da do bệnh đái tháo đường thường xuất hiện sau khi chấn thương, được cho là một phản ứng khuếch đại của mô đối với các chấn thương.
4. Nhận diện các bệnh da do đái tháo đường
4.1 Bàn chân đái tháo đường
Bệnh đái tháo đường nếu không được kiểm soát tốt sẽ dẫn đến tổn thương mạch máu và biến chứng thần kinh. Bàn chân đái tháo đường với những vết loét là hậu quả của biến chứng thần kinh ngoại biên (60 – 70%) hoặc biến chứng mạch máu nhỏ ngoại vi (15 – 20%) hoặc kết hợp cả 2 nguyên nhân gây ra suy tuần hoàn và thiểu dưỡng. Những vị trí chịu sức ép, ví dụ như bàn chân, dễ bị viêm loét, có thể dẫn đến nhiễm trùng và hoại tử. Bàn chân đái tháo đường xảy ra ở khoảng 15 – 25% bệnh nhân, trong đó có 70% trường hợp phải đoạn chi.
4.2 Bóng nước do đái tháo đường
Bóng nước do đái tháo đường là sang thương hiếm gặp, biểu hiện cấp tính, xảy ra phổ biến ở những bệnh nhân bị đái tháo đường lâu năm, bệnh nặng hoặc có nhiều biến chứng đái tháo đường, đặc biệt là người có bệnh võng mạc đái tháo đường và biến chứng thần kinh.
Bệnh bóng nước do đái tháo đường phổ biến ở nam nhiều hơn nữ, trong độ tuổi từ 17 – 84 tuổi, với các đặc điểm sau đây:
- Không ngứa, không đau, kích thước từ 0,5 – 17 cm
- Bóng nước căng, không có quầng viêm xung quanh
- Thường xuất hiện ở cẳng tay, bàn tay, ngón tay và cẳng chân, bàn chân, ngón chân, hiếm khi có ở thân mình. Những bóng nước tự nhiên xuất hiện ở các đầu chi dưới có thể là biểu hiện đầu tiên của bệnh đái tháo đường.
- Bóng nước trong thượng bì là những bóng nước vô trùng, chứa dịch trong và thường tự lành mà không để lại sẹo trong vòng 2 – 5 tuần.
- Bóng nước dưới thượng bì ít phổ biến hơn và có thể có xuất huyết, khi lành thường sẽ để lại sẹo và teo da.
Bóng nước do đái tháo đường không cần điều trị mà hầu hết thường tự lành, điều quan trọng là tránh cọ xát, không được cào gãi hoặc tự ý làm vỡ bóng nước, chăm sóc vết trợt da (nếu có) và tránh bội nhiễm.
4.3 Xơ cứng da
Da xơ cứng do đái tháo đường là các biến đổi da giống xơ cứng bì, thường xảy ra ở người bệnh đái tháo đường tuýp 1 nhiều năm. Xơ cứng da xảy ra ở 10 – 50% bệnh nhân đái tháo đường, tỷ lệ mắc bệnh như nhau giữa nam và nữ. Nguyên nhân sinh bệnh là do các sản phẩm của sự tăng glycosylation làm collagen đặc quánh. Biểu hiện của xơ cứng da là tình trạng da căng cứng, dày như sáp ở mặt mu bàn tay, các ngón tay (thường ở các khớp liên đốt gần hoặc liên đốt giữa) trở nên cứng hơn và khó cử động. Da cứng và sưng phù có thể lan rộng lên tới vùng cẳng tay và cánh tay, đối xứng 2 bên, không đau. Trong một số trường hợp, da ở khuỷu tay, đầu gối hoặc mắt cá chân cũng dày lên và có kết cấu như vỏ cam, dẫn đến khó gấp duỗi cánh tay và chân. Ngoài ra, các vị trí khác cũng có thể gặp là vai, cổ, vùng lưng trên, ngực và đôi khi lan ra vùng mặt.
Xơ cứng da xuất hiện ở những bệnh nhân có biến chứng đái tháo đường hay đường huyết không được kiểm soát tốt. Khi lớp da dày cứng phát triển ở ngón tay, ngón chân, những vùng gần hoặc ngay trên khớp thì biện pháp điều trị hữu ích là vật lý trị liệu giúp phục hồi khả năng gập duỗi các khớp.
4.4 Hoại tử mỡ do đái tháo đường
Hoại tử mỡ do đái tháo đường xảy ra ở khoảng 1% bệnh nhân, trong đó nữ giới chiếm >70%. Bệnh nhân đái tháo đường phụ thuộc insulin có thể xuất hiện các sang thương hoại tử mỡ từ rất sớm, tuổi trung bình là 22. Trong khi đó, những bệnh nhân đái tháo đường không phụ thuộc insulin sẽ xuất hiện trễ hơn, trung bình là 49 tuổi.
Nguyên nhân sinh bệnh của hoại tử mỡ chưa rõ nhưng có thể là do tình trạng viêm các mạch máu nhỏ trong biến chứng đái tháo đường. Hoại tử mỡ có biểu hiện là những mảng teo da lớp thượng bì, màu nâu vàng hoặc đỏ giống như sáp, không đau, bề mặt có các vết loét. Bờ sang thương đỏ, nhô cao, giới hạn rõ. Da xung quanh vùng hoại tử trơn, bóng láng, hiện rõ nhiều mạch máu, có thể ngứa và đau. Đa số tổn thương da xuất hiện ở cẳng chân (75% trường hợp là đối xứng), có thể ở bàn chân, cánh tay, da đầu hay thân mình.
4.5 Ngứa da cẳng chân mắc phải
Ngứa da trong bệnh cảnh đái tháo đường có thể do nhiều nguyên nhân như da khô, nhiễm nấm men, bệnh lý thần kinh hoặc bệnh lý mạch máu ngoại biên gây tuần hoàn máu kém. Ngứa da là bệnh da do đái tháo đường thường gặp nhất, xuất hiện ở 50% bệnh nhân trẻ bị đái tháo đường phụ thuộc insulin. Nguyên nhân gây bệnh không rõ ràng, có thể có sự tham gia của bệnh lý mạch máu nhỏ, tăng glycosylation, tổn thương dính lớp sừng và da lão hoá nhanh.
4.6 Chứng gai đen
Chứng gai đen là bệnh lý da rất phổ biến ở bệnh nhân đái tháo đường đề kháng insulin. Ngoài ra chứng gai đen còn gặp một số bệnh nội tiết khác như suy tuyến thượng thận, suy tuyến giáp. Tình trạng này thường gặp ở những người Mỹ gốc Phi, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và vùng Đông Nam Á có kèm theo hội chứng chuyển hoá, đặc biệt là béo phì.
Nguyên nhân sinh bệnh là do tình trạng tăng insulin trong máu làm kích hoạt thụ thể insulin growth factor (IGF-1) trên các tế bào sừng dẫn đến sự phát triển của lớp thượng bì. Chứng gai đen biểu hiện là da dày lên, sậm màu, mịn như nhung và tăng sắc tố da, thường xuất hiện ở vùng có nếp gấp như cổ, nách, cùi chỏ, rốn, bẹn, quầng núm vú, dưới vú.
4.7 U lồi có cuống
U lồi có cuống ngoài da là những u lành tính, màu hồng hoặc nâu, có cuống ngoài da thường xuất hiện quanh những nếp gấp như mí mắt, cổ, nách, bẹn ở người lớn tuổi, một số trường hợp xuất hiện kết hợp với chứng gai đen. Nếu xuất hiện nhiều u lồi có cuống ngoài da thì có thể là dấu hiệu của tăng insulin trong máu hoặc rối loạn biến dưỡng carbohydrate trong bệnh đái tháo đường tuýp 2.
4.8 U hạt vàng
U hạt vàng có thể là dấu hiệu đầu tiên chỉ điểm cho bệnh đái tháo đường chưa điều trị, có tăng triglyceride máu nặng. Sang thương điển hình là các sẩn kích thước từ 1 – 4 mm, màu vàng hơi đỏ, ở mặt duỗi của chi và mông. Các u hạt vàng thường xuất hiện theo đợt và có thể gom lại thành một mảng lớn.
4.9 Phù cứng bì
Phù cứng bì là biểu hiện ngoài da hiếm gặp của bệnh đái tháo đường, thường xảy ra ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 trên 40 tuổi và giới nam, rất ít khi có ở bệnh nhân nữ. Biểu hiện là da bị phù cứng như gỗ không véo da lên được, giảm cảm giác sờ chạm và cảm giác đau, tổn thương da lan tỏa và đối xứng, có thể có hồng ban, chủ yếu xuất hiện ở cổ, vai và lưng, có thể lan lên mặt. Đa số bệnh nhân xuất hiện phù cứng bì khi bắt đầu lệ thuộc insulin, thường điều trị không thành công và nhiều biến chứng.
4.10 Bệnh Kyrle
Bệnh Kyrle là những u hạt viêm mạn tính ở quanh nang lông, thường xuất hiện các đầu chi, thân mình, da đầu và da mặt. Sang thương có màu hồng, đỏ hoặc tăng sắc tố da, rất ngứa, hình dạng giống vỏ hàu, dày sừng và lõm ở giữa, tập hợp thành một vệt dài (hiện tượng Koebner). Nguyên nhân gây ra bệnh Kyrle chưa rõ, có thể là do phản ứng viêm da thứ phát do tình trạng tăng urê máu, lắng đọng acid uric hoặc các vết trầy xước do gãi. Bệnh Kyrle liên quan chặt chẽ với 5 – 10% bệnh nhân đái tháo đường và suy thận mạn, thường xuất hiện muộn từ 10 đến 30 năm sau khi được chẩn đoán đái tháo đường và sau nhiều tháng lọc thận.
4.11 Bệnh đỏ da
Bệnh đỏ da ở bệnh nhân đái tháo đường xuất hiện ở da vùng mặt, cổ và các đầu chi, có thể do sự giãn mạch.
4.12 Da vàng cam
Tổn thương da màu vàng cam là những mảng màu vàng cam, giới hạn rõ, xuất hiện ở trên và xung quanh mí mắt, vùng da có nhiều tuyến bã nhờn (vùng mặt) và vùng da có lớp sừng dày (lòng bàn tay, lòng bàn chân). Móng tay và móng chân cũng có thể bị nhuốm màu vàng cam tương tự.
4.13 Dày sừng nang lông
Dày sừng nang lông giống với bệnh da vảy cá mắc phải, là bệnh da lành tính rất phổ biến, biểu hiện bởi những sẩn dày sừng xung quanh các nang lông, chủ yếu là ở thân mình. Sang thương xuất hiện sớm trong diễn tiến của bệnh đái tháo đường.
4.14 U vàng, ban vàng (Eruptive Xanthomas)
Phát ban dạng u vàng (Xanthomas) liên quan đến nồng độ cholesterol và triglycerid tăng cao trong máu. Biểu hiện bởi nhiều sẩn mềm và ngứa, màu vàng hoặc nâu đỏ đột ngột bùng phát khắp cơ thể, chủ yếu ở mặt lưng bàn tay, khuỷu tay, đùi, cẳng chân, bàn chân, mặt sau gối, mông và thân mình; tuy nhiên có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào. Xanthomas thường xảy ra ở bệnh nhân đái tháo đường týp 1, nam giới, trẻ tuổi. Tổn thương da xuất hiện đột ngột và biến mất nhanh chóng khi bệnh được kiểm soát tốt.
4.15 Nhiễm trùng da (Nhiễm vi khuẩn, vi nấm)
Nhiễm trùng da có thể xảy ra ở 20 – 50% bệnh nhân đái tháo đường kiểm soát kém, đa số là týp 2 do giảm tuần hoàn máu, giảm khả năng thực bào, sự kết dính của bạch cầu suy yếu và hiện tượng hóa ứng động chậm. Nhiễm trùng da ở người bệnh đái tháo đường có thể do vi khuẩn – bao gồm nhọt, loét, áp xe, viêm mô tế bào hoặc do nhiễm nấm, đặc biệt là nấm Candida albicans.
- Nhiễm vi nấm chiếm tỉ lệ nhiều nhất trong các bệnh nhiễm trùng ngoài da do đái tháo đường, trong đó phổ biến nhất là nhiễm nấm Candida. Nguyên nhân là do hàng rào bảo vệ da bị suy yếu. Nhiễm nấm cũng thường là dấu hiệu cảnh báo đầu tiên của bệnh đái tháo đường. Nhiễm vi nấm ngoài da ở bệnh nhân đái tháo đường bao gồm: Nấm kẽ ngón chân, viêm miệng, viêm quầng, viêm móng, viêm âm hộ – âm đạo, viêm da quy đầu, viêm mô tế bào và nghiêm trọng nhất là nhiễm trùng huyết do vi nấm. Bệnh nhân đái tháo đường nhiễm toan ceton rất có nguy cơ nhiễm vi nấm nhóm Phycomycetes (mucormycosis) đặc biệt ở vùng hầu họng, với các sang thương dưới dạng hoại tử mạch máu trung tâm, có thể gây viêm não. Hầu hết những bệnh nhân này đều tử vong.
- Nhiễm trùng da do vi khuẩn ở bệnh nhân đái tháo đường nhiều gấp 3 lần so với các bệnh khác. Tác nhân nhiễm khuẩn đa số là do các vi khuẩn gram âm ví như Pseudomonas aeruginosa. Ngoài ra, các nhiễm khuẩn da do bệnh đái tháo đường không được kiểm soát tốt bao gồm viêm quầng, viêm mô tế bào viêm da mủ do nhiễm vi khuẩn gram dương như Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) hoặc Streptococcus nhóm A & B. Đặc biệt vết loét nhiễm trùng của bàn chân đái tháo đường là triệu chứng không được xem nhẹ vì chủng vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa kháng thuốc dẫn đến nhiễm trùng huyết nghiêm trọng, vết thương hoại tử và bệnh nhân có thể bị đoạn chi.
5. Điều trị bệnh da do đái tháo đường
Các tổn thương da do bệnh đái tháo đường gây ra là những thương tổn lành tính, thường không cần điều trị đặc hiệu. Ngoại trừ nhiễm trùng da do vi khuẩn và vi nấm cần điều trị thuốc kháng sinh và kháng nấm, kết hợp với chăm sóc vết thương mỗi ngày, các bệnh da do đái tháo đường còn lại có xu hướng tự biến mất sau vài năm nhưng có thể cần một thời gian dài, đặc biệt là khi đường huyết được kiểm soát tốt.
Do đó, biện pháp hiệu quả nhất để điều trị bệnh da do đái tháo đường là kiểm soát tốt lượng đường trong máu bằng cách xây dựng chế độ ăn uống lành mạnh với những thực phẩm tốt cho sức khỏe, ăn nhiều rau xanh, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, hạn chế ăn chất đường bột, mỡ động vật thay vào đó sử dụng chất đạm và dầu từ thực vật. Đồng thời, tập luyện thể dục thể thao đều đặn mỗi ngày để duy trì cân nặng lý tưởng và cải thiện hiệu quả tình trạng đề kháng insulin. Ngoài ra, các vùng da bị tổn thương cũng nên được giữ ẩm, tránh tình trạng cọ xát hay chấn thương làm bệnh nghiêm trọng hơn.